Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp tế bào gốc từ dây rốn trong điều trị bệnh nhân bại não: đánh giá có hệ thống

Nội Dung Bài Viết

Orphanet Journal of Rare Diseases, 17/10/2025

Tổng quan

Bại não (Cerebral Palsy – CP) là nguyên nhân phổ biến nhất gây suy giảm chức năng ở trẻ nhỏ. Bại não là một nhóm các tình trạng ảnh hưởng đến vận động và tư thế, bắt nguồn từ tổn thương xảy ra ở hệ thần kinh trung ương đang phát triển, thường là trước khi sinh. Các triệu chứng xuất hiện trong giai đoạn sơ sinh hoặc tuổi mẫu giáo và dao động từ rất nhẹ đến nghiêm trọng.

Trên toàn thế giới, khoảng 3/1000 người mắc CP. Chi phí hàng năm để chăm sóc một bệnh nhân bại não được ước tính vào khoảng 87 tỷ USD đối với nền kinh tế của Úc và Hoa Kỳ. Khoảng 70% trường hợp bại não không rõ nguyên nhân, và 20% nguyên nhân ở trẻ em có thể liên quan đến sinh non, sang chấn trước sinh hoặc thiếu oxy não. Ngoài ra, nhiễm trùng và các bất thường xảy ra trong quá trình phát triển thai nhi cũng là những yếu tố góp phần gây ra bệnh lý này.

Tế bào gốc được định nghĩa là các tế bào đa năng có khả năng tự làm mới và biệt hoá thành các dòng tế bào khác. Trong các nguồn tế bào gốc, máu dây rốn đồng loài (allogeneic umbilical cord blood – UCB) hiện được xem là một nguồn tế bào gốc trưởng thành giá trị cao, chứa nhiều loại tế bào có tiềm năng điều trị khác nhau. UCB được tạo ra từ các bạch cầu đơn nhân và chứa tổ hợp tế bào T điều hòa, tế bào gốc và tế bào tạo máu. Chúng có khả năng tác động lên môi trường viêm thần kinh và được ứng dụng trong điều trị các bệnh lý thần kinh. Nói cách khác, UCB là lựa chọn thực tiễn nhất cho điều trị CP nhờ các đặc tính bảo vệ thần kinh đã được chứng minh, bao gồm tác dụng chống viêm và kháng apoptosis. Truyền UCB giúp cung cấp tín hiệu miễn dịch và cận tiết nhằm tăng khả năng sống của tế bào tại vùng tổn thương, thúc đẩy tăng sinh tế bào tiền thân và tăng tạo mạch, từ đó hỗ trợ điều trị các bệnh lý thần kinh. Ngoài ra, UCB còn cho thấy khả năng ức chế viêm thần kinh thông qua giảm hoạt hoá vi tế bào thần kinh (microglia) và giảm đáp ứng của tế bào T.

Hiện nay, nhiều khía cạnh của liệu pháp dựa trên UCB vẫn chưa được làm sáng tỏ. Để triển khai các phác đồ an toàn và hiệu quả mà không làm phát sinh lo ngại đạo đức, cần xác định liều tối ưu, loại tế bào phù hợp, và đường dùng tối ưu của UCB. Xét đến tầm quan trọng của tế bào gốc, đặc biệt là máu dây rốn đồng loài, nghiên cứu này được thực hiện dưới dạng đánh giá có hệ thống với trọng tâm là đánh giá tính an toàn và hiệu quả điều trị bằng tế bào gốc có nguồn gốc từ dây rốn cho bệnh nhân bại não. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá một cách hệ thống tính an toàn và hiệu quả của điều trị bằng tế bào gốc từ máu dây rốn đồng loài ở bệnh nhân bại não, qua đó cung cấp bằng chứng quan trọng cho việc điều trị bại não trên toàn cầu.

Kết quả

Trong đánh giá có hệ thống này, các kết quả được công bố từ những nghiên cứu báo cáo tính an toàn và hiệu quả của điều trị bằng tế bào gốc có nguồn gốc từ dây rốn đồng loài ở bệnh nhân bại não đã được trích xuất một cách có hệ thống theo các Hướng dẫn liên quan.

Máu dây rốn (UCB) hiện là một trong những nguồn tế bào gốc trưởng thành tốt nhất, chứa nhiều loại tế bào có tiềm năng điều trị đa dạng. Máu dây rốn đồng loài có khả năng hỗ trợ điều trị bại não. Theo nghiên cứu của Min K. et al. (2013), việc dùng đồng thời erythropoietin tái tổ hợp người (rhEPO), một chất có đặc tính dưỡng thần kinh, có thể tăng cường hiệu quả của UCB. Trong cùng nghiên cứu, điều trị bằng UCB giúp cải thiện khuyết tật vận động và nhận thức ở trẻ bại não, đồng thời cải thiện các thay đổi cấu trúc và chuyển hóa của não. Viêm phổi và kích thích được ghi nhận như các biến chứng của tiêm UCB. Tuy nhiên, đây cũng là tác dụng phụ điển hình của thuốc ức chế miễn dịch cyclosporine, cho thấy nhiều khả năng các biến chứng này xuất phát từ cyclosporine hơn là từ UCB. Trái ngược với hai nghiên cứu nêu trên, một số tài liệu khác báo cáo rằng cyclosporine cũng có tác dụng bảo vệ thần kinh tương tự EPO; và sự kết hợp này có thể mang lại hiệu quả bảo vệ thần kinh mạnh hơn.

Một số tác dụng phụ khác của tiêm tế bào gốc gồm sốt và nôn ói. Đường dùng nội tủy sống và điều trị ở bệnh nhân ≤ 10 tuổi là các yếu tố nguy cơ liên quan đến các tác dụng phụ này. Trong 24 giờ đầu sau điều trị, đau lưng, đau đầu và kích thích là những tác dụng phụ phổ biến, chủ yếu liên quan đến thủ thuật chọc dò tủy sống. Sốt là tác dụng phụ thường gặp nhất. Một trường hợp rối loạn nhịp tim xảy ra trong quá trình tiêm nhưng tự hồi phục mà không cần can thiệp. Ngoài ra, 6 bệnh nhân bị tê bì chân tay, nhưng triệu chứng cũng tự khỏi.

Nhiều bài báo cho thấy rằng truyền tế bào gốc giúp cải thiện đáng kể chức năng vận động. Một số nghiên cứu khác báo cáo điều trị bằng UCB giúp tăng sức mạnh cơ. Hơn nữa, cải thiện hiệu suất nhận thức cũng được ghi nhận trong một thử nghiệm lâm sàng. Dữ liệu hình ảnh học trong hai nghiên cứu cho thấy cải thiện cấu trúc chất trắng sau tiêm UCB. Phù hợp với các nghiên cứu này, những tài liệu khác cho thấy rằng tiêm UCB cải thiện đáng kể khả năng tự chăm sóc, khả năng di chuyển và chức năng xã hội; điểm số trong bộ câu hỏi Chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân bại não (CP-QOL) ở các mục “bạn bè & gia đình” và “tham gia hoạt động” cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng; đồng thời mức độ khuyết tật chức năng và chức năng thần kinh cũng cải thiện đáng kể.

Cũng trong nghiên cứu của Min K. et al. (2013), nhóm điều trị cho thấy tăng hoạt động ở nhân bèo hai bên, đồi thị, các vùng nhỏ thùy trán hai bên, thùy đỉnh phải và thùy thái dương trái; trong khi nhóm chứng ghi nhận tăng hoạt động chủ yếu ở thùy trán hai bên và nhân bèo. Một nghiên cứu khác báo cáo rằng nhóm can thiệp có giảm hoạt động ở vùng chất trắng thùy chẩm và thùy thái dương hai bên, trong khi có tăng hoạt động ở nhiều vùng vỏ não thuộc thùy trán và thùy đỉnh. Ở nhóm chứng, hoạt động não giảm tại nhiều vùng, nhưng có tăng nhẹ ở một số vùng của thùy trán và vỏ đỉnh

Dường như liều UCB hoặc tuổi có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị sau tiêm. Bệnh nhân nhận liều cao cho thấy cải thiện có ý nghĩa thống kê so với liều thấp. Ngoài ra, cải thiện tốt hơn được ghi nhận ở bệnh nhân lớn tuổi hơn, những người có tình trạng vận động ít suy giảm; trong khi trẻ có suy giảm vận động nặng cải thiện nhiều hơn về chức năng nhận thức, dù không có cải thiện đáng kể về vận động. Các đặc tính di truyền cũng có thể dự đoán mức độ đáp ứng với liệu pháp tế bào gốc. Tất cả các nghiên cứu được chọn đều cho thấy tế bào gốc có nguồn gốc từ dây rốn đồng loài không gây biến chứng nghiêm trọng hay đe dọa tính mạng.

Tuy nhiên trong một nghiên cứu, một bệnh nhi nữ 25 tháng tuổi, bị liệt cả hai tay và hai chân do thiếu oxy não nặng, tổn thương chất xám trung tâm và thân não, đã tử vong sau điều trị 14 tuần. Bệnh nhi không thể kiểm soát đầu, có suy giảm vận động nghiêm trọng, cần nuôi ăn qua ống do chức năng vận động miệng kém, mặc dù cha mẹ vẫn cố gắng cho bệnh nhi ăn qua đường miệng. Bệnh nhi cũng có tắc đàm dai dẳng. Về mặt y khoa, sau tiêm UCB, bệnh nhi tiếp tục cải thiện chức năng thần kinh cho đến lần đánh giá cuối cùng (trong 3 tháng). Khám lâm sàng cho thấy bệnh nhi ổn định về thần kinh khi tái khám tại khoa thần kinh nhi vào ngày xảy ra tử vong. Bệnh nhi tử vong khi đang ngủ không rõ nguyên nhân. Sau khi rà soát toàn bộ dữ liệu và sự kiện liên quan, kết luận rằng tử vong không liên quan đến tiêm UCB.

Thảo luận

Mặc dù tế bào gốc từ máu dây rốn (UCB) đã được giới thiệu như một chiến lược mới trong điều trị bại não, căn bệnh gây ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống của bệnh nhân, việc chứng minh tính an toàn và hiệu quả của chúng là điều thiết yếu. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng tế bào gốc từ dây rốn đồng loài là an toàn và hiệu quả, và tiêm UCB không đồng nhất cũng có thể được sử dụng để điều trị CP. Các cơ chế cơ bản có thể giải thích hiệu quả điều trị của UCB bao gồm: điều hòa miễn dịch, tiết các yếu tố dinh dưỡng, chuyển hóa chống oxy hóa, yếu tố tạo mạch, hoạt tính chống viêm, chống xơ hóa và chống apoptosis, tất cả đều có thể tăng cường sửa chữa các mô bị tổn thương. Trong các thử nghiệm trên chuột mắc CP, một nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy tác dụng kéo dài và có lợi của tiêm UCB đồng loài là nhờ tác động cận tiết, thúc đẩy quá trình hồi phục của các tế bào não bị tổn thương và ngăn ngừa tổn thương não trong tương lai. Hơn nữa, các thử nghiệm lâm sàng cho thấy cả UCB tự thân và đồng loài đều mang lại lợi ích cho bệnh nhân CP.

Các tác dụng được báo cáo có thể liên quan đến các yếu tố khác ngoài tế bào gốc. Ví dụ, tăng hoạt động đáng kể ở thùy trán được quan sát trong các thí nghiệm sử dụng EPO, có thể là do kích thích dopaminergic. Trong một nghiên cứu khác, tập luyện thể lực mạnh có thể kích hoạt tiểu não ở nhóm chứng không điều trị. Một nghiên cứu sử dụng UCB cho thấy tăng chuyển hóa ở vùng đồi thị trong nhóm điều trị; đây là một phát hiện đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, trong một công bố trước đó của cùng tác giả, khi không sử dụng UCB, lưu lượng tưới máu tại vùng đồi thị giảm. Trong một thử nghiệm khác, EPO cũng được cho nhóm chứng ngoài nhóm can thiệp; sự khác biệt kết quả giữa hai nhóm có thể phản ánh tác động của UCB lên não.

Cần nhấn mạnh rằng tiêm UCB thường phù hợp hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên, vì tế bào có thể được thu thập an toàn, không xâm lấn và ít đau đớn. So với việc cấy ghép tế bào gốc từ tủy xương tự thân, việc sử dụng UCB đồng loài rẻ hơn và tốn ít thời gian. Quá trình tách, tinh sạch, tăng sinh, định danh và thu thập MSC từ tủy xương có thể kéo dài khoảng 1 tháng, lâu hơn nhiều so với chuẩn bị UCB đồng loài. Các báo cáo gần đây cho thấy tế bào gốc có thể được sử dụng điều trị các bệnh lý thần kinh. Một số nghiên cứu cho thấy tế bào gốc từ dây rốn đồng loài có khả năng điều trị nhiều bệnh lý thần kinh khác nhau. Các báo cáo lâm sàng mới nổi cũng chỉ ra khả năng sử dụng tế bào gốc, bao gồm UCB, cho tổn thương não ở trẻ em. Một nghiên cứu khác cho thấy tiêm UCB cải thiện chức năng vận động thô ở bệnh nhân bại não nặng.

Một thử nghiệm không ngẫu nhiên trên 8 cặp sinh đôi giống hệt nhau (n=16) cho thấy sau 1 tháng tiêm nội tủy UCB đồng loài, chức năng vận động thô không cải thiện đáng kể trong những tháng đầu, nhưng sau 6 tháng cải thiện đáng kể. Hiệu quả điều trị sau tiêm UCB cũng được dự đoán bởi yếu tố di truyền. Các thay đổi trung bình về chức năng vận động thô ở một số nghiên cứu là thấp hơn, có thể do đặc điểm cơ bản, bao gồm tuổi của người tham gia. Một nghiên cứu khác cho thấy phát triển/chức năng vận động ở trẻ CP tiềm năng hơn sau 5–7 tuổi và kết quả điều trị tốt hơn khi can thiệp gần thời điểm tổn thương. Ngoài ra, các thay đổi nhỏ hơn trong nhóm điều trị có thể do tiêm một liều duy nhất UCB đồng loài (liều thấp hoặc không dùng liều liên tiếp).

Phương pháp tiêm UCB hiệu quả nhất vẫn chưa được xác định, nhưng có nhiều lựa chọn. Một số nghiên cứu cho thấy tiêm tĩnh mạch hoặc động mạch có thể thúc đẩy phát triển chức năng ở bệnh nhân CP. Những phương pháp này ít xâm lấn hơn tiêm nội tủy. Tuy nhiên, tế bào UCB khó đến được vùng tổn thương khi tiêm tĩnh mạch/động mạch, vì tế bào có thể bị giữ lại ở cơ quan khác hoặc không vượt được hàng rào máu não. Tiêm động mạch cũng liên quan đến nguy cơ vi tắc mạch (ví dụ, cục máu đông). Một báo cáo ca lâm sàng sử dụng kết hợp tiêm tĩnh mạch và nội tủy tế bào gốc dây rốn đồng loài, ghi nhận cải thiện đáng kể EEG, chức năng vận động và khả năng ngôn ngữ. Mặc dù tiêm vào não thất cũng được đề xuất, không phải bệnh nhân nào cũng thích hợp vì là phương pháp xâm lấn. Bốn nghiên cứu cho thấy tiêm tĩnh mạch/động mạch UCB đồng loài cải thiện đáng kể chức năng vận động. Một nghiên cứu khác ghi nhận hiệu quả tiêm tĩnh mạch UCB đồng loài, và bệnh nhân nhận liều HLA phù hợp cao hơn cải thiện chức năng vận động nhiều hơn so với nhóm có 2 HLA không phù hợp. Tóm lại, các biến chứng liên quan đến tế bào gốc không nghiêm trọng hay đe dọa tính mạng, và phần lớn cải thiện tự phát hoặc nhờ chăm sóc hỗ trợ.

Kết luận

Theo các nghiên cứu được đánh giá, các nghiên cứu này báo cáo rằng tế bào gốc từ máu dây rốn (UCB) có tác dụng có lợi trong cải thiện và điều trị bệnh nhân bại não. Do không ghi nhận tác dụng phụ nghiêm trọng trong quá trình sử dụng phương pháp điều trị này ở các bệnh nhân được nghiên cứu, liệu pháp UCB có thể được xem xét như một phương pháp điều trị tiềm năng cho bệnh nhân bại não.

Tài liệu tham khảo

Bài viết được dịch và tóm tắt từ bài báo (nếu có): Salari, N., Morddarvanjoghi, F., Hosseinian-Far, A. et al. (2025). Safety and efficacy of umbilical cord-derived stem cell therapy for the treatment of cerebral palsy patients: a systematic review. Orphanet J Rare Dis 20, 518.

Nguồn: Orphanet J Rare Dis

Link: https://ojrd.biomedcentral.com/articles/10.1186/s13023-025-04029-z

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài Viết Liên Quan