Parent’s Guide to Cord Blood, 10/2024
Chúng tôi đang tiếp tục phát hành bản cập nhật định kỳ về xu hướng trong các thử nghiệm lâm sàng sử dụng nguồn tế bào gốc chu sinh. Bản cập nhật này tính đến cuối năm 2023.
Nguồn tế bào | Số thử nghiệm Liệu pháp tế bào tiên tiến đến cuối năm 2023 |
Máu dây rốn +/– Nguồn không chu sinh | 316 |
Mô dây rốn +/– Nguồn không chu sinh | 581 |
Nguồn chu sinh khác (nhau thai, nước ối) và hỗn hợp các nguồn chu sinh | 149 |
Dưới đây bảng thống kê về số lượng thử nghiệm lâm sàng qua từng năm về liệu pháp tế bào tiên tiến với các tế bào có nguồn gốc từ máu dây rốn, mô dây rốn hoặc các nguồn chu sinh khác/hỗn hợp. Biểu đồ này tương thích với đánh giá thử nghiệm chu sinh cuối cùng của chúng tôi cho đến cuối năm 2021 và báo cáo sau khoảng thời gian đó1.
Một số độc giả có thể bị sốc khi biết rằng số lượng các thử nghiệm lâm sàng sử dụng tế bào gốc trung mô dây rốn (umbilical cord mesenchymal stromal cells–UC-MSC) đã giảm gần một nửa kể từ mức đỉnh điểm vào năm 2020-2021. Trên thực tế, điều này không có gì đáng ngạc nhiên và nó phản ánh tác động của đại dịch COVID-19 đối với lĩnh vực liệu pháp tế bào. Nhóm của chúng tôi tại CellTrials.org trước đây đã ghi nhận rằng đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gia tăng 16% trong tổng số đăng ký thử nghiệm lâm sàng về liệu pháp tế bào tiên tiến2. Nhưng đối với MSC nói riêng, số lượng đăng ký thử nghiệm lâm sàng đã tăng gấp đôi từ năm 2019 đến năm 20202. Chúng tôi cũng đã công bố một báo cáo lưu ý rằng trong giai đoạn 2020-2022, 41% các thử nghiệm liệu pháp tế bào tiên tiến cho COVID-19 dựa vào các nguồn tế bào chu sinh3. Đến tháng 4 năm 2023, 65% kết quả được công bố từ các thử nghiệm này là các nghiên cứu sử dụng các tế bào có nguồn gốc chu sinh3. Và cuối cùng, phân tích tổng hợp lớn nhất về các liệu pháp MSC cho COVID-19 đã phát hiện ra rằng việc truyền MSC giúp cải thiện khả năng sống sót của bệnh nhân (RR = 0,63 với Khoảng tin cậy 95% từ 0,46 đến 0,85)4. Bất chấp nỗ lực lớn của cộng đồng trong các thử nghiệm lâm sàng chu sinh đối với COVID-19, không có gì ngạc nhiên khi đại dịch lắng xuống, số lượng các thử nghiệm liệu pháp tế bào tiên tiến hàng năm từ các nguồn chu sinh đã trở lại mức trước đại dịch. Tuy nhiên, trong hai năm kể từ bản tóm tắt cuối cùng của chúng tôi, từ cuối năm 2021 đến cuối năm 2023, số lượng tích lũy các thử nghiệm chu sinh về liệu pháp tế bào tiên tiến đã tăng 17% từ 891 lên 1046.
Chúng tôi cũng đã tạo biểu đồ tròn về các chẩn đoán được điều trị trong 538 thử nghiệm liệu pháp tế bào tiên tiến chu sinh được đăng ký trong năm năm 2019-2023. Khoảng thời gian này được chọn để giới thiệu các thử nghiệm được đăng ký gần đây và để đánh dấu kỷ nguyên COVID-19. Trong các bài đánh giá trước đây, chúng tôi đã cố gắng nhóm các thử nghiệm hoàn toàn dựa trên nguồn tế bào, thành các thử nghiệm máu dây rốn so với các thử nghiệm mô dây rốn. Nhưng điều này quá đơn giản, vì máu dây rốn có thể là nguồn tế bào miễn dịch trị liệu hoặc có thể được sử dụng để nuôi cấy MSC. Và cũng có câu hỏi về cách đưa các thử nghiệm có nguồn gốc từ nhau thai vào. Nhau thai chứa máu, mạch máu có tế bào nội mô, mô nhau thai có thể được sử dụng để nuôi cấy MSC và màng ối chứa tế bào biểu mô. Trong bài đánh giá năm nay, chúng tôi đã quyết định tạo ra ba nhóm thử nghiệm liệu pháp tế bào chu sinh dựa trên cơ chế hoạt động của tế bào: liệu pháp miễn dịch, MSC và những thứ khác.
Biểu đồ tròn đầu tiên của chúng tôi hiển thị các loại chẩn đoán cho 108 thử nghiệm chu sinh đã đăng ký 2019-2023 sử dụng các tế bào thuộc hệ thống miễn dịch. Chúng bao gồm các tế bào đơn nhân (monocyte–MNC) chưa được xử lý, từ máu dây rốn hoặc máu nhau thai và các tế bào liệu pháp miễn dịch được nuôi cấy từ máu dây rốn hoặc máu nhau thai. Chỉ có 6% (6/108) thử nghiệm sử dụng máu nhau thai, nhưng 40% (43/108) thử nghiệm đang lấy các loại tế bào liệu pháp miễn dịch cụ thể từ máu chu sinh. Các loại tế bào được sản xuất bao gồm: tế bào CD34+ mở rộng, NK, CAR–NK, TCR–NK, CIK, MAK, CAR–T và T–reg. Nhóm chẩn đoán lớn nhất trong những năm 2019-2023 là Huyết học/Ung thư, chiếm 32% (35/108) thử nghiệm. Đáng chú ý là 86% (30/35) trong nhóm này bao gồm các thử nghiệm liệu pháp miễn dịch sử dụng các tế bào đã được mở rộng hoặc có nguồn gốc từ máu dây rốn hoặc nhau thai. 14% (5/35) thử nghiệm Huyết học/Ung thư còn lại sử dụng máu dây rốn chưa qua xử lý như một phần của liệu pháp tế bào tiên tiến đều nằm ở các nước Châu Á. Đáng chú ý, nhóm chẩn đoán thần kinh chiếm 22% (24/108) thử nghiệm máu dây rốn, bao gồm các biến chứng liên quan đến hệ thần kinh khi sinh, như bệnh thiếu máu não cục bộ do thiếu oxy và Bại não, cũng như đột quỵ và bệnh thoái hóa thần kinh ở người lớn. Các loại chẩn đoán riêng biệt chiếm 63% (5/8), được kiểm tra bởi chứng rối loạn phát triển phổi phế quản, và bao gồm các biến chứng sinh non khác
Biểu đồ tròn thứ hai của chúng tôi hiển thị các loại chẩn đoán cho 402 thử nghiệm chu sinh được đăng ký 2019-2023 sử dụng MSC. Máu dây rốn là nguyên liệu đầu tiên để thu nhận MSC trong 4% (17/402) trong số các thử nghiệm này, với 53% (9/17) trong số các thử nghiệm đó được thực hiện tại Hàn Quốc. Ngoài ra, 9% (36/402) thử nghiệm lấy MSC từ nhau thai hoặc màng ối hoặc nhiều nguồn chu sinh. Phần lớn các thử nghiệm chiếm 87% (349/402), chỉ lấy MSC từ mô dây rốn, mặc dù MSC có thể đã phân phối cùng với các tế bào hoặc tác nhân khác (không phải chu sinh) hoặc được gieo trên giá thể. Khi được phân loại theo chẩn đoán, không có gì đáng ngạc nhiên khi chỉ định được sử dụng nhiều nhất là COVID-19 và các tình trạng phổi khác, ở mức 22% (87/402). Tiếp theo là danh mục thử nghiệm lớn thứ hai là các tình trạng thần kinh, chiếm 12% (50/402) và các thử nghiệm chỉnh hình đứng thứ ba với 11% (44/402) trong số các thử nghiệm MSC. Khía cạnh đáng chú ý nhất của biểu đồ hình tròn về các thử nghiệm MSC chu sinh là chúng được phân bổ khá đồng đều giữa các chỉ định y khoa, với bảy danh mục chẩn đoán, mỗi danh mục chiếm trung bình khoảng 7% các thử nghiệm MSC chu sinh
Trong số 402 thử nghiệm lâm sàng với MSC chu sinh được đăng ký 2019-2023, chỉ có 1,2% (5/402) được thiết kế để so sánh hiệu quả lâm sàng của MSC chu sinh so với nguồn MSC trưởng thành. Nhiều hơn các thử nghiệm đó là 1,5% (6/402), đã thử nghiệm UC-MSC trên môi trường có điều kiện (exosome giúp duy trì các UC–MSC một cách hiệu quả). Cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để làm rõ tác động lâm sàng về những khác biệt sinh học giữa MSC chu sinh và MSC trưởng thành đã được xác định trong các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm5.
Cuối cùng, một nhóm gồm 28 thử nghiệm chu sinh được đăng ký 2019-2023 không sử dụng tế bào miễn dịch trị liệu hoặc MSC. Trong danh mục bao quát này, 50% (14/28) thử nghiệm sử dụng tế bào biểu mô ối, 21% (6/28) sử dụng các tấm màng ối làm giá thể cho các tế bào khác và 18% (5/28) sử dụng tế bào nội mô từ mạch máu dây rốn.
Bản cập nhật năm nay về các thử nghiệm lâm sàng về liệu pháp tế bào chu sinh tiên tiến cho thấy sự phát triển trong lĩnh vực này đang diễn ra với tốc độ tương tự như trước đại dịch COVID-19, sử dụng nhiều loại tế bào khác nhau và nhắm đến nhiều mục đích sử dụng.
Tài liệu tham khảo
- Verter F. 2022 Update: How many clinical trials use cord blood or cord tissue? Parent’s Guide to Cord Blood Foundation Newsletter Published 2022-08
- Verter F, Silva Couto P, Bersenev A. New trials of cell-based therapy surged in 2020, both because of and despite the pandemic. org News Published 2021-04-25
- Verter F, Silva Couto P. 2023 Update: Development of COVID-19 Therapies from Birthing Tissues and Cord Blood. SCTM 2023; 12S1:S8.
- Couto PS, Al-Arawe N, Filgueiras IS, Fonseca DLM, Hinterseher I, Catar RA, Chinnadurai R, Bersenev A, Cabral-Marques O, Moll G, Verter F. Systematic review and meta-analysis of cell therapy for COVID-19: global clinical trial landscape, published safety/efficacy outcomes, cell product manufacturing and clinical delivery. Frontiers Immunology 2023; 14:1200180.
- Silva Couto P, Stibbs DJ, Rotondi MC, Khalife R, Wolf D, Takeuchi Y, Rafiq QA. Biological differences between adult and perinatal human mesenchymal stromal cells and their impact on the manufacturing processes. Cytotherapy 2024; vol:1-13.
Nguồn: Parent’s Guide to Cord Blood